08:05 ICT Thứ năm, 18/04/2024

Trang nhất » Tin Tức » Tin tức - sự kiện

KỶ NIÊM NGÀY THOÁT KHỎI " ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN"

Thứ hai - 28/04/2014 21:49
                Nhân kỷ niện 42 năm ngày được bộ đội giải phóng giải thoát khỏi địa ngục trần gian ( nhà Lao Quảng Trị)  xin trích đoạn hồi ký “ Chuyện kể về một thời của Lê Hữu Thăng  do nhà xuất bản chính trị Quốc gia xuất bản tháng 1 năm 2012.
               Nhân kỷ niện 42 năm ngày được bộ đội giải phóng giải thoát khỏi địa ngục trần gian ( nhà Lao Quảng Trị)  xin trích đoạn hồi ký “ Chuyện kể về một thời của Lê Hữu Thăng  do nhà xuất bản chính trị Quốc gia xuất bản tháng 1 năm 2012.
Một chiều mùa hạ, hơn bốn mươi năm trôi qua, tôi vẫn còn nhớ như chuyện vừa xảy ra hôm qua. Đấy là ngày 28-7-1969, khi tôi và Lê Văn Dăng đang còn cầm phấn viết bài giảng lên tấm bảng đen bắt đầu tiết dạy hè cho các em nhỏ trong ngôi trường làng thì thoáng thấy một chiếc xe Jeep cuốn tung bụi đường ào vào sân trường. Một tốp cảnh sát đặc biệt của Ty Công an Quảng Trị thuộc ngụy quyền Sài Gòn nhảy vội xuống xe, ập vào lớp và không cần đọc lệnh hay tuyên bố gì, khống chế, còng tay chúng tôi đưa ra xe. Chiếc xe vội vã lao về hướng thị xã Quảng Trị, tôi ngoái nhìn lại phía sau, những em học sinh nhỏ trong lớp học ngơ ngác chạy ra đứng giữa sân nhìn theo không hiểu vì sao những “thầy giáo” trẻ của mình bị bắt. Một không khí nặng nề lo âu bao trùm lên xóm nhỏ.
Địch đưa chúng tôi vào trại tạm giam tại Ty Công an Quảng Trị. Trại tạm giam chỉ là một ngôi nhà dài chừng 25 m, rộng chừng 6 đến 7 m ở ngay trong Ty Công an, có hàng rào kiên cố và được canh gác cẩn mật. Chúng cho xây tường ngăn ra thành 7 phòng giam theo từng gian nhà, mỗi phòng bề ngang chừng 3,5 m, sâu chừng 6 đến 7 m. Chỗ cho tù nhân nằm là một bệ xi măng không chiếu, không chăn, không gối. Anh em chúng tôi được xếp để nằm ngủ như sắp cá nục vào soong để kho. Mặc kệ ốm đau, mặc kệ đói khát, đến bữa bị lùa ra ngồi giữa sân để ăn, không mâm, không bàn ghế, thức ăn là một chậu canh rau muống đã bị ôi và chén muối rang có vài hạt mì chính và ớt bột. Ăn xong được ngồi xếp theo hai hoặc ba hàng dọc tuỳ theo số lượng tù nhân đông hay ít.
Chúng tôi được ngồi chừng một tiếng đồng hồ nhưng chỉ được nhìn vào bức tường nhà giam, không ai được nói chuyện. Tuy riết róng như vậy nhưng mỗi lần được ra sân, được nhìn nhau, hưởng chút thoáng đãng không khí ngoài trời, thỉnh thoảng cơn gió Lào ùa ngang qua khiến ai cũng thấy khoan khoái đến lạ thường. Sáng sớm chúng mở cửa cho tù nhân sắp hàng dài dằng dặc, cả nam lẫn nữ để đi vào phòng vệ sinh. Cả gần trăm con người mà chỉ có một phòng vệ sinh, quá tải nên vô cùng hôi hám và dơ bẩn.
Có lần do bị tra tấn suốt ngày, tối về phòng tạm giam, anh em nằm ngủ, vì phòng chật, người đông nên phải nằm san sát nhau. Một đêm Đào Phồn mỏi quá nên co chân lại, ngủ quên, chân Phồn gác qua chân tôi. Lê Văn Sỏ, tay cảnh sát giám thị tại phòng giam đi tuần, đưa mắt nhìn qua cái lỗ hình thoi bé tý đút không lọt nắm tay (mỗi phòng chỉ có một lỗ duy nhất như thế để nhìn ra ngoài hoặc từ ngoài nhìn vào) nhìn thấy chân Phồn gác như vậy y lập tức mở cửa phòng, kéo tôi và Đào Phồn ra kiếm cớ để đánh. Y điên tiết hét lớn: “Léo, ở tù mà còn... léo, léo…”, miệng thét, tay y vung dùi cui đánh tới tấp. Đánh xong, Sỏ bắt hai anh em tôi nằm xuống, mỗi người chống tay hít đất đúng một trăm cái. Bị đánh đập suốt ngày, suy kiệt nên chỉ chống tay hít được ba lần đã bị chúi sấp mặt xuống đất, tôi nói với y: “Sức yếu, tôi không hít nổi nữa!”. Sỏ liền lấy roi bằng dây điện đánh vào lưng, vào mông, vào cổ, vào đầu tôi tới tấp, (những lỗ thủng sâu ở người do Sỏ đánh sau này thành sẹo, tôi coi đó là “chứng tích tội ác” của Sỏ đối với bản thân). Không bắt được chúng tôi hít đất, Sỏ bắt chạy quanh gara xe ô tô một trăm vòng (gara nằm ngoài khuôn viên phòng tạm giam). Hít đất thì không được, nhưng chạy thì được. Nào ngờ sau một trăm vòng chạy, đêm đến rã rời chân tay, nhức mỏi toàn thân, nằm ngửa cũng đau, nằm nghiêng cũng đau, ngồi cũng đau, đứng cũng đau… thật là khủng khiếp.
Trong phòng giam có nhiều rệp, rệp trú ẩn giữa các kẽ nứt nẻ của nền xi măng, đêm đến bò lên hút máu anh em. Thỉnh thoảng có con bò lên tường, anh em giết rệp, vết máu dính bầm đen trên tường, Sỏ vào kiểm tra nhìn vết máu hất hàm hỏi: “Đứa mô mà dám giết con rệp này? Ta nuôi nó để hành hạ các người, tại sao các người giết nó đi!”, chỉ một lý do trời ơi như vậy là Sỏ lại mang anh em chúng tôi ra đánh dã man, tàn độc.
Hơn sáu tuần bị giam ở Ty Công an Quảng Trị, cứ sáng sáng chúng tôi bị đưa lên xe bịt bùng chở đến trung tâm thẩm vấn, đến chiều tối chở về. Trung tâm thẩm vấn đóng ở phía trên đường sắt của ga Quảng Trị, cách Ty Công an khoảng hai cây số. Trước khi vào trung tâm thẩm vấn (mà chúng tôi gọi là lò tra khảo) chúng cho xe bịt bùng chạy quanh cột cờ vài vòng tròn. Người vốn đã yếu vì bị tra tấn, trong thùng xe lại không có chỗ vịn, không nhìn thấy bên ngoài, người như không trọng lượng, nên cứ mỗi lần xe lượn vòng tròn như thế gan ruột ai cũng như lộn tùng phèo. Đấy là cảm giác đầu tiên của những ngày đầu bị vào lao lý. Vào trung tâm thẩm vấn, chúng đẩy chúng tôi vào xà lim. Mỗi người một phòng, phòng chỉ khoảng 3 m2 để chuẩn bị đưa đi tra khảo. Phòng nhỏ nhưng lại có một lỗ cầu tiêu hôi hám, đến bữa chúng cho hé ô cửa nhỏ của cánh cửa để đưa vừa lọt một bát cơm nguội và một ca nước. Uống cũng như đi vệ sinh (vì chúng không cho giấy vệ sinh) chỉ một ca nước ấy cho một ngày. Ngày ngày, sáng cũng như chiều, đến giờ làm việc, một tên cảnh sát đến mở cửa, tay cầm một dải băng đen kéo chúng tôi ra, bịt kín mắt như tử tù bị đưa đi thi hành án tử hình rồi dẫn chúng tôi lên phòng “thẩm vấn”. Đến cửa phòng, màn “chào đón” đầu tiên của chúng là đánh phủ đầu bằng roi dây điện, đấm đá vào bụng, vào ngực rồi thò tay móc xương sườn. Có người bị thọc gãy cả xương sườn, những tiếng la hét, kêu van ầm ĩ vọng ra từ các phòng tra tấn nghe thật ghê rợn và khủng khiếp. Tôi một mực không khai, không nhận những lời ép cung nên bị chúng cho đi “tàu bay”. Đấy là một từ lóng của anh em tù chính trị gọi mỗi khi bị tra điện bằng máy điện xoay chiều. Chúng quấn dây dẫn vào hai ngón tay cái, từ dòng điện ban đầu mới quay khoảng từ 5 đến 10 vôn, khi quay nhanh lên đến khoảng 120 vôn thì người bị giật tung, ngất xỉu không biết gì nữa. Thế nhưng đi “tàu bay” vẫn còn dễ chịu hơn đi “tàu thủy”, bởi đi “tàu bay” vù một cái là xong hoặc chết ngất trong chốc lát. Đi “tàu thủy” là từ dùng để chỉ thủ đoạn mỗi khi tra tấn bằng cách đổ nước. Chúng buộc tù nhân nằm ngửa trên một tấm ghế dài, trói tay chân lại rồi phủ tấm khăn mặt trùm kín mũi miệng rồi bắt đầu đổ nước tràn qua khăn vào mũi, miệng. Bị ngạt bởi màng nước, không có không khí để thở, buộc phải nuốt nước vào bụng. Khi bụng trương nước no cành, chúng lại kéo ngồi lên “nhồi” cho ộc ra rồi đổ tiếp. Nếu dùng nước giếng còn đỡ, có người bị chúng đổ nước tiểu, đổ nước ớt cay,… mỗi lần đi “tàu thủy” xong, mặt mày bị đỏ tấy và sưng vù không thể nhìn được.
“Tàu thủy” có lẽ là hình thức tra tấn cực hình nhất. Có lần tôi bị đổ đến hai thùng rưỡi nước xà phòng, nhiều anh chị em trong tù thấy vậy chép miệng thầm thì: “Tội nghiệp thằng nhỏ quá, bé như vậy mà chúng đổ đến hai thùng rưỡi nước sao mà chịu đựng nổi”. Những lời cảm thông ấy dường như khiến tôi “lỳ” hơn, tự tin hơn. Tra tấn không được, chúng liền bày trò tâm lý dụ dỗ đủ điều... nhưng nhất mực tôi không khai, không nhận, tránh tổn thất cho cách mạng .
Sau này, khi bị tống về lại nhà lao, có lần ra tắm ở giếng nước, anh em có người đùa giỡn nằm ngửa trên nền giếng, người thì ôm tay, người thì ôm chân, người thì đổ nước lạnh thử, dù chỉ một gàu nước vào mũi và miệng như khi bị tra tấn, mà vẫn không thể chịu đựng được. Vậy mà những ngày ở trung tâm thẩm vấn, ý chí kiên cường của những người tù chính trị yêu nước đã mạnh hơn bất cứ thủ đoạn tàn bạo nào để bảo vệ bí mật của cách mạng.
“Trung tâm thẩm vấn” chỉ là khúc dạo đầu cho chúng tôi hiểu thế nào là bắt bớ, giam cầm, còn những năm tháng ở lao xá Quảng Trị mới thực sự là những “kỷ niệm” không thể nguôi quên trong tâm khảm tôi và đồng đội.
 Có lẽ cũng nên kể thêm rằng sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, chính quyền Sài Gòn bị sụp đổ, không có đường thoát, tên “bạo chúa” Sỏ trở về trình diện với chính quyền cách mạng tại xã (quê Sỏ ở thôn Nhan Biều, Triệu Thượng, Triệu Phong). Lòng chúng tôi bấy giờ vẫn chưa nguôi căm thù, thương tích còn hằn trên da thịt, một hôm mấy anh em tôi rủ nhau đi “thăm” Sỏ. Thấy chúng tôi xuất hiện, Sỏ sợ quá, đạp cửa sau chạy trốn. Nhưng chúng tôi đã bàn với nhau trước, nếu gặp Sỏ cũng chỉ để cho Sỏ thấy những vết sẹo do Sỏ gây ra và khuyên Sỏ sớm cải tạo để thành người lương thiện, cùng lắm cũng chỉ cho y vài bạt tai chứ không oán thù gì bởi chấp hành chính sách khoan hồng và hoà hợp dân tộc của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam.


Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Từ khóa: nbsp nbsp

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn